516- HẠNH ĐỘC CƯ
(35:00) Thầy
giảng trạch về hạnh độc cư, các con hãy lắng nghe cho kỹ. Đây là một hạnh khó
tu tập nhất trong ba hạnh. Nghe thì như dễ dàng lắm, mà hành thì khó vô cùng. Hạnh
độc cư là một phương tiện tu tập để bảo vệ, phòng hộ, giữ gìn, hộ trì, ngăn ngừa,
che chở thân tâm được an ổn, tránh các ngoại duyên bên ngoài, khiến cho tâm cảnh
an vui, tu tập dễ dàng. Độc cư còn giúp cho tâm các con có dịp tuôn tràn bao
nhiêu ký ức, những kỷ niệm. Độc cư cũng là dịp giúp cho các con nhận ra được dục
lạc ham ngủ, ham vui là tai hại trên đường tu tập. Độc cư là đối tượng để các
con dùng mọi phương tiện tu tập thu nhiếp thân tâm thành khối nội lực.
(36:16) Người
không sống trong hạnh độc cư được là người thường bị phân tâm. Người phân tâm
là người không có sức tỉnh thức cao, không có sức tập trung mạnh, chỉ có ức chế
tâm bằng tưởng pháp. Người thích quay ra ngoài thường rất sợ cô đơn, tâm thường
bị phân tán theo các duyên. Tâm chúng ta có, vốn từ nhân quả mà ra, nên thường
bị các duyên nhân quả chi phối. Vì thế tâm lúc nào cũng bị phân chia ta nát, nó
không hợp nhất lại được. Chỉ một vài giây hợp lại là bị phân ra liền bởi các
duyên trong ba thời gian: quá khứ, hiện tại, vị lai. Từ ngày này suốt ngày nọ,
từ năm này đến năm khác, cho đến ngày tàn tạ xuống lòng đất, tâm chúng ta đều bị
phân tán liên tục. Mục đích của người tu thiền là gom tâm lại, dù bất cứ thứ
thiền nào, chỉ trừ loại thiền do các nhà học giả sản xuất ra.
Bởi thế, người tu thiền mà không sống trong rừng núi thanh vắng ĐỘC CƯ, thì không làm sao nhập định được.
1. Vì tâm bị phân tán;
2. Vì tâm không thành khối;
3. Vì tâm không có nội lực;
Muốn cho tâm
thành khối, có nội lực dũng mãnh, để đóng mở sáu căn và tiến vào giai đoạn II của
Thiền định là DIỆT, thì phải sống độc cư một trăm phần trăm.
(38:12) Muốn tu tập sống hạnh sống ĐỘC CƯ, các con phải sống tu tập ba giai đoạn:
.Giai đoạn thứ nhất, sống tập ít nói chuyện.
.Giai đoạn thứ hai, tập sống riêng, làm việc riêng một mình;
.Giai đoạn thứ ba, tập sống riêng không làm việc.
Ở đây Thầy sẽ
giảng trạch phần thứ nhất của hạnh độc cư, là TẬP SỐNG ÍT NÓI CHUYỆN, để các
con hiểu rõ, tu tập không sai lệch. Khi nào các con tu tập xong phần thứ nhất,
Thầy sẽ giảng trạch phần thứ hai, tức là tập sống riêng, làm việc riêng một
mình. Khi nào tu tập phần thứ hai xong, Thầy sẽ giảng trạch phần thứ ba, tu tập
sống riêng không làm việc. Nếu giảng trạch ngay bây giờ luôn cả ba phần, các
con sẽ bị rối rắm, không biết cách thức tu, cách thức nào tu tập cho đúng.
Ở giai đoạn một, sống độc cư là tập ít nói chuyện. Muốn tập ít nói chuyện con phải biết lựa chọn cái gì cần thiết mới nói, mới thưa hỏi; không cần thiết thì không được hỏi, không được nói. Chỉ duy nhất chỉ thưa hỏi về chuyện tu tập, và phải thưa hỏi riêng để được lắng nghe kỹ, còn thưa hỏi chung trong tập thể thì rất là khó lắng tâm theo sự hướng dẫn của thiện tri thức. Thưa hỏi về sự tu tập là mục đích để hiểu cho rõ, để thực hành cho đúng, còn ngoài ra tất cả những chuyện khác đều phải cẩn thận khi muốn nói ra
1. (40:20) Tránh nói chuyện tào lao, nhảm nhí;
2. Tránh kết tình nghĩa, kết bạn thân;
3. Tránh nghe chuyện người khác, vì chuyện người khác khiến cho ta phải nói ra;
4. Tránh gặp nhau, vì gặp nhau dễ sanh nói chuyện. Nhưng gặp nhau thì không nói chuyện là tốt nhất;
5. Không nên đem sự hiểu biết cũng như kinh nghiệm về tu hành của mình dạy người khác khi mình tu chưa xong.
6. Thấy bạn mình tu sai, không được đến dạy bảo, nên phải báo cho Thiện hữu tri thức biết để sửa lại, không được đến dạy bảo, vì đến dạy bảo làm động mình, động người và thành quen thuộc với nhau, nên không giữ hạnh độc cư được…;
7. Thấy bạn đồng tu buồn khổ, không được đến an ủi, chia sẻ; chỉ cần báo Thiện hữu tri thức đến giúp đỡ;
8. Tránh đổ lỗi người khác, vì đổ lỗi người khác là tạo duyên bất an trong tâm, thường xảy ra duyên cãi cọ, tranh tụng;
9. Tránh đi đến thất của người khác, vì đến thất người khác là làm động mình, và làm động tâm người;
10. Làm lao động chung, tránh nói chuyện cười đùa;
11. Khi giúp bạn đồng tu đang bệnh, tránh nói chuyện ngoài vấn đề bệnh; tốt hơn hết là hỏi bệnh để dùng phương tiện trị liệu;
12. Khi làm chung một việc gì, cần phải làm theo ý muốn của người khác để tránh duyên cãi cọ, đổ thừa;
13. Thường tập sống thơ thẩn một mình Luôn giữ tâm thanh thản, an lạc và hướng tâm đến thanh thản, an lạc;
14. Luôn giữ tâm vô sự, và hướng tâm đến thanh thản;
15.Thường giữ tâm vô sự và hướng tâm đến vô sự;
16.Thường tránh xa các duyên để giữ tâm không bị phân tán;
17. Không nên đem tâm sự của mình nói cùng ai ngoài thiện hữu tri thức của mình;
18. Thấy việc làm nặng nhọc cùng nhau chia sẻ làm nhưng không nói chuyện;
19. Thấy ai làm chưa xong cùng làm phụ nhưng không nói chuyện.
20.Thường sống im lặng trong và ngoài tâm và hướng tâm đến sự im lặng.
(43:10) Hai
mươi điều trên đây để giữ tâm im lặng. Điều tốt nhất là tránh xa, tránh xảy ra
các duyên, tránh tạo các duyên mới. Càng tránh duyên bao nhiêu thì tâm càng ít
phân chia ra bấy nhiêu. Càng cố tránh duyên tâm càng dễ hợp nhất thành khối.
Càng cố tránh duyên tâm càng dễ hợp nhất thành khối. Càng cố tránh duyên thì
hoàn cảnh mới thanh tịnh, yên vui tu hành. Càng tiếp duyên càng động khiến cho
hoàn cảnh bất an khó tu hành. Càng tiếp duyên tâm thường bị phân chia, khó
thành nội lực, tu tập sẽ dậm chân tại chỗ không tiến bố.
Các con nên
biết, độc cư ở giai đoạn I là TỊNH KHẨU. Tịnh khẩu nghĩa là nói lời thanh tịnh,
không nói lời bất tịnh. Nói lời thanh tịnh là nói lời thiện, nói lời thiện là
nói lời làm vui lòng mình và vui lòng người. Nói lời bất tịnh là nói lời ác,
nói lời ác là nói lời làm đau khổ mình và đau khổ người. Tịnh khẩu không phải
là á khẩu. Tịnh khẩu là nói lời lành không nói lời giữ như Thầy đã giảng ở
trên; á khẩu là câm, không nói được. Khi nghe giảng đến đây các con đã hiểu độc
cư ở giai đoạn thứ nhất là tịnh khẩu, không phải á khẩu. Ở giai đoạn tu tập này
phải hiểu cho thật rõ, nếu chưa hiểu phải hỏi lại cô Út Diệu Quang cho thật kỹ.
Không khéo các con tu hành trở thành hình thức, ít nói mà thành nói rất nhiều,
nghĩa là chuyện gì các con cũng nói; khi tâm bung ra, phân tán nói thôi không hết,
như nước vỡ bờ.
(45:12) Hạnh Độc Cư khó lắm; nó là bí quyết thành công của Thiền định, nó có ba nhiệm vụ:
.Nhiệm vụ thứ nhất, bảo vệ tâm tránh các duyên;
.Nhiệm vụ thứ hai, gom tâm hợp nhất thành khối;
.Nhiệm vụ thứ ba, làm cho tâm tuôn trào ra hết.
Sáu năm trời
tu khổ hạnh của đức Phật Thích Ca là sáu năm tu LY DỤC, nhờ đó, đức Phật tránh
được các duyên, thu nhiếp được thân tâm thành khối nội lực. Khi tâm đã thành khối
có nội lực, đức Phật đã xả bỏ khổ hạnh tối đa, chỉ giữ lại khổ hạnh bình thường
như năm anh em Kiều Trần Như, chỉ có hơn họ là dùng thêm sữa do cô bé chăn dê
cúng dường. Bốn mươi chín ngày dưới cội bồ đề, đức Phật dùng nội lực nơi tâm đã
có sẵn, đem ra chiến đấu ly bất thiện pháp. Lúc bấy giờ, đức Phật gọi là hàng
phục Ma Vương diệt tầm tứ, đóng mở sáu căn, nhập Nhị Thiền và xả bỏ thân tâm nhập
Tứ Thiền hướng đến Tam Minh, thành tựu giải thoát.
Tóm lại, ly
dục là lìa xa ý muốn của mình. Khi mình còn làm theo ý muốn của mình tức là
chưa lìa xa. Bởi nghe nói ly dục thì rất dễ dàng, mà lìa xa ý muốn của mình rất
là khó khăn. Bậc Thánh như Đức Khổng Phu Tử đến 70 tuổi ông mới dám tuyên bố:
“Ta đến tuổi này, mới làm theo ý muốn của mọi người”. Nghĩa là đến 70 tuổi,
Ông mới ly dục được tâm Ông. Theo Thầy nghĩ, muốn ly dục ít ra phải ba năm rèn
luyện. Còn nếu tu lơ mơ thì 30 năm cũng chưa chắc đã làm được. Cái ý muốn của
mình là cái gì? - Là BẢN NGÃ. Bản ngã không ly thì làm sao có Niết bàn? VÔ NGÃ
là Niết Bàn.
(47:32) Đi
tu cũng như đi học. Ở đời người ta học tập đến nơi đến chốn mới có lợi ích cho
mình, cho người, cho xã hội. Người học mà không đến nơi đến chốn thì chẳng có
ích lợi gì cho mình, còn làm cho xã hội phải gánh nặng thêm. Đi tu cũng vậy, tu
không đến nơi, đến chốn sẽ làm bại hoại tôn giáo. Người tu đến nơi đến chốn,
làm sáng tỏ Phật pháp qua gương hạnh sống của mình, khiến cho mọi người quy ngưỡng
và tôn kính Phật pháp. Chúng ta đã quyết chọn con đường tu là phải tu cho đến
nơi đến chốn không thể tu lừng chừng. Người tu lừng chừng không ích cho mình,
cho người, mà còn có hại người, hại tôn giáo. Các con đến đây là mục đích quyết
tâm tu chứ không phải đì tìm cái sống. Đức Phật dạy: “Tu là phải lìa xa ý
muốn của mình”. Đã tu là quyết tâm bỏ; bỏ để được giải thoát, bỏ để được
thảnh thơi, an vui một đời. Mà bỏ cái gì? - Bỏ ý muốn.
Đến đây Thầy xin được nhắc lại, giai đoạn thứ nhất của Thiền Định là giải đoạn Ly như Thầy đã dạy ở giai đoạn này, chia ra làm hai phần tu tập.
1. Ly dục
2. Ly bất thiện pháp
Phần thứ nhất
ở giai đoạn này Thầy đã giảng trạch xong, nghĩa là muốn ly dục chúng ta dùng ba
hạnh ăn, ngủ, độc cư để tu tập. Như các con đã hiểu rõ ăn ngủ độc cư là đối tượng
để tu tập khắc phục cho bằng được tâm ly dục. Nếu các con đã sống đúng ba hạnh
thì các con đã ly được dục. Nếu chưa sống được ba hạnh thì các con hãy cố gắng
tiếp tục tu tập hơn để hoàn thành được phần thứ nhất - Ly dục. Phần Ly Dục này
ai cũng biết đức Phật Thích Ca Mâu Ni phải 6 năm khổ hạnh như Thầy đã dạy ở
trên.
(49:28) Đến
phần thứ hai là LY BẤT THIỆN PHÁP, Thầy giảng trạch cho các con để hiểu rõ cách
thức tu tập đúng. Tóm lại buổi nói chuyện hôm nay các con nên nhớ, chúng ta là
những tu sĩ của đạo tu hạnh giải thoát thì thời gian nào, ngày nào, tháng nào,
năm nào toàn là mùa xuân; Mùa Xuân Vĩnh Cửu trong tâm hồn của chúng ta; mùa
xuân không có nhân quả; mùa xuân không có diễn biến luân hồi. Vì thế chúng ta
không có chúc thọ, không có mừng tuổi, mừng xuân thế gian. Hãy sống bình thường.
Hãy giữ tâm bình thường trước mọi diễn biến thay đổi của không gian và thời
gian, bằng một tâm hồn thanh thản. Bây giờ các con ăn cơm kẻo muộn, ngày mai Thầy
sẽ giảng tiếp phần thứ hai LY BẤT THIỆN PHÁP. Nhưng trước khi ăn cơm các con
hãy lắng nghe bài hồi hướng.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét