386-PHÁP HÀNH 31: 6- TÂM ĐỊNH
TĨNH, THUẦN TỊNH, NHU NHUYỄN, DỄ SỬ DỤNG
(15:06) Đó,
trên cái phương diện như vậy, bây giờ chúng ta bắt đầu nghe lại cái bài kinh Đức
Phật đã nói:
“Này Đại
Vương, với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu uế, không phiền não, nhu nhuyễn,
dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Tỳ Kheo dẫn tâm, hướng tâm đến chánh
trí, chánh kiến.
Vị ấy biết
thân này của ta là sắc pháp, do bốn đại thành, do cha mẹ sanh, nhờ cơm cháo
nuôi dưỡng, vô thường, biến hoại, phấn toái, đoạn tuyệt, hoại diệt, trong thân
này thức ta lại nương tựa vào sự trói buộc.”
Đó, là khi
mà cái tâm của chúng ta mà nó thuần tịnh, nó định tĩnh, nó thuần tịnh rồi, nó
không còn cấu uế nữa, không còn phiền não, nó nhu nhuyễn, dễ sử dụng, nghĩa là
bây giờ nhắc nó như thế nào, nó làm theo như thế nấy đó. Thì lúc bấy giờ chúng ta
mới nhắc nó đến chánh trí, chánh kiến, thì nó nhìn thấy được cái thân nó như thế
nào rất rõ.
Còn bây giờ
chúng ta hiểu biết nhưng sự thật ra cái chánh trí và chánh kiến chúng ta chưa
có, chưa có hướng đến được cái chánh trí, chánh kiến đâu.
Cho nên nhiều
khi chúng ta hiểu là thân này là tứ đại do bốn đại hòa hợp thì đó là chúng ta
nhai lại cái đờm dãi của kinh sách, nhai lại cái bã mía của cái người khác chớ
không phải chính chúng ta đã thấy thật là nó như vậy. Vì vậy chúng ta chưa có
chánh trí, mà chưa có chánh kiến, cho nên làm sao?
Vì tâm của
chúng ta như là một cái dòng nước đục, nó còn đang đục, nó nhiễm, nó chưa có
trong sạch, thì do đó cái chánh trí và chánh kiến của chúng ta chưa có.
Ở đây Phật
nhắc cho chúng ta biết rằng, khi mà tâm chúng ta phải định tĩnh - định tĩnh là
như thế nào? Cho nên lúc bây giờ một người mà muốn tu Tứ Như Ý Túc đó, là tâm
phải định trên thân, thân phải định trên tâm.
Tại sao là
tâm phải định trên thân? Là tâm nó nương vào cái thân để mà nó ly tất cả các
cái lậu hoặc. Cái tâm nó nương vào cái thân để nó ly tất cả các lậu hoặc, cho
nên gọi là tâm định trên thân. Nếu mà ngoài cái thân này thì cái tâm nó định
tĩnh ở đâu mà nó ly được cái lậu hoặc? Nó phải ở trong cái thân này nó mới có
ly được cái lậu hoặc.
Do lầm chấp
cái thân này là ngã, vì vậy mà ai đụng đến nó thì dễ sanh ra lậu hoặc. Do đó ở
trên cái thân này, cái tâm mà nó cố gắng nó định trên thân là nó định cái gì?
Là nó định cái phiền não tham, sân, si, nó không còn nữa, nó thanh tịnh, thì nó
gọi là định trên thân.
Bây giờ thì
khi mà cái tâm nó định rồi, nó thanh tịnh rồi thì nó không có sanh ra phiền não
nữa, nó không sanh ra giận hờn phiền não, thì trong đầu nó nó không có niệm vọng
tưởng.
Một lát nữa
Thầy sẽ trả lời, có người hỏi: “Con có vọng tưởng nhưng không biết làm sao!
Vọng tưởng từ đâu nó sanh và đoạn diệt nó như thế nào?’’ Lát nữa Thầy
sẽ trả lời về những câu vấn đạo, để biết rằng vọng tưởng nó ở đâu mà sanh ra.
Ở đây thì
chúng ta biết rất rõ từ cái niệm trong tâm của chúng ta sanh ra, thì do ác pháp
và lòng ham muốn của chúng ta mà sanh ra những cái vọng tưởng.
Vì vậy nếu
mà chúng ta đã tu tập để ly tất cả những cái ác pháp và cái dục, cái lòng ham
muốn của chúng ta, thì nó không còn sanh vọng tưởng nữa. Đó là một cái điều mà
rất cụ thể và rõ ràng, và cách thức và pháp hướng thì Thầy đã dạy cách thức tu
đó rồi.
Cho nên tất
cả những cái điều mà nó sanh ra trong tâm của chúng ta đều là do cái chỗ mà
tham, sân, si, lòng ham muốn của chúng ta mà ra. Mà bây giờ nó định tĩnh - định
tĩnh tức là cái tâm của mình nó không còn, tĩnh đây là nó rất là yên lặng, định:
nó định lại trong cái sự yên lặng của nó, nó không còn có Thất Kiết Sử, không
còn có Ngũ Triền Cái nữa.
Vì vậy mà
bây giờ nó định tĩnh mà nó còn thuần tịnh nữa. Đức Phật nói: “Với tâm định
tĩnh, thuần tịnh’’. Nếu mà tâm chúng ta chưa định tĩnh, chưa thuần tịnh mà
chúng ta tu tập thiền định, thì tu tập thiền định gì? Nó đâu có được!
“Không có
uế nhiễm”, nghĩa
là trước cái món ăn, nó ngon mình cũng không thèm, trước cái sự cám dỗ của tất
cả những vật chất, nó cũng không ham, đó là cái chỗ nó không có cấu nhiễm.
Rồi bây giờ
nó đã như vậy rồi, thuần tịnh rồi định tĩnh rồi, thì nó sẽ không phiền não mà
nó dễ dàng sử dụng, cái tâm dễ dàng sử dụng.
Cho nên khi,
ở đây có một thầy, người ta tu người ta xả cái tâm mình, mỗi cái tâm niệm khởi
lên thì người ta xả nó. Bây giờ nó ham muốn gì đó thì người ta xả nó, người ta
nghĩ rằng cái đó là nó không có, nó là ác pháp, nó đem đến cho chúng ta khổ nè,
hãy buông nó đi, đừng có nghĩ ngợi nữa.
Và cứ cố gắng,
cứ họ tu như vậy, riết đến khi mà cái tâm nó xả hết, cuối cùng rồi nó xả hết, bắt
đầu nó yên lặng, tự nó yên lặng à. Nó yên lặng rồi cái vị thầy đó mới bảo: “Cái
tâm đừng có nghe ngóng ra ngoài! Quay vô! Biết hơi thở ra biết hơi thở vô!”
Lúc bấy giờ
luôn luôn chúng ta ngồi cả giờ đồng hồ mà vẫn biết hơi thở, không có cái niệm vọng
tưởng nào hết. Chớ không phải ngồi mà để hít thở hoặc là đếm, hoặc là sổ tức,
hoặc là tùy tức, hoặc là niệm Phật, hoặc là các pháp khác mà ức chế tâm để đi
vào cái chỗ mà không vọng tưởng.
Ở đây thầy đó
chỉ xả tâm thôi, sống đúng độc cư. Sống cho đúng độc cư, nghĩa là không có đi
ra khỏi cổng chùa, không nói chuyện với ai, sống một mình, sống trầm lặng một
mình.
Nó nhiều khi
nó phá chúng ta, muốn đi chơi muốn nói chuyện người này thì chúng ta ngăn chặn,
đây là những cái ác pháp làm chúng ta phá những cái hạnh tu của chúng ta.
Cho nên người
đó ngăn chặn. Ngăn chặn mãi cho đến khi tâm xả sạch, thì nó có một cái nhu nhuyễn
dễ điều khiển nó lắm. Cho nên nhắc nó: “Cái tâm quay vô!” nó
quay vô, nó không cần nghe ra ngoài nữa, và lúc bấy giờ nó cũng không có nghe
như chúng ta.
Còn chúng ta
bây giờ, nó vừa nghe trong mà vừa nghe ngoài, bây giờ nhiều khi chúng ta hít thở
chúng ta biết mà vẫn nghe âm thanh, chứ chưa phải vắng đâu. Còn cái người đó
cái tâm nó quay vô rồi, nó không nghe.
Nghĩa là âm
thanh vẫn có, nhưng mà vì nó đã quay vào trong, nó nghe hơi thở mà nó không cần
nghe ra ngoài nữa, tức là tâm hết phóng dật. Vì vậy mà lúc bấy giờ cái tâm nó dễ
sử dụng, dễ sử dụng thì tức là chúng ta hướng tâm đến chỗ nào là nó hướng đến
chỗ đó.
-PHÁP HÀNH
31: 7- BỐN GIAI ĐOẠN TU TỨ NIỆM XỨ
(21:24) Đó
thì trải qua một cái quá trình đầu tiên, thì ở trong cái Tứ Niệm Xứ, nó có bốn
cái giai đoạn tu tập:
Cái giai đoạn
thứ nhất: là giai đoạn ly dục, ly ác pháp. Mà thường thường Phật hay nhắc chúng
ta là trên thân quán thân để khắc phục tham ưu; rồi trên thọ quán thọ để khắc
phục tham ưu, rồi trên tâm quán tâm để khắc phục tham ưu, trên pháp quán pháp để
khắc phục tham ưu.
Rồi kế đó rồi
thì Đức Phật lại: trên thọ quán thọ tu về hành tướng ngoại, thì đó là tu trong
Chánh Niệm Tỉnh Thức hay là Thân Hành Niệm. Còn hễ mà nhắc đến tu trên thân mà
quán thân tu về hành tướng nội, thì tức là hơi thở rồi.
Đó, như vậy
là Đức Phật đã dạy chúng ta cái giai đoạn đầu để mà ngăn chặn, là từ cái Chánh
Niệm Tỉnh Thức cho đến cái Định Niệm Hơi Thở.
Rồi đến cái
mà để khắc phục tham ưu, trên thân quán thân tức là tu cái Định Vô Lậu. Tại sao
biết nó là Định Vô Lậu? Vì trên thân quán thân tu về nhân tướng, cái tướng thân
của chúng ta, trên cái thân này nè, xem xét lại cái thân này nè, tức là trên
cái trụ xứ này, xem lại cái thân trên cái trụ xứ này.
Do đó chúng
ta xem xét trên cái nhân tướng nó, do đó chúng ta biết cái tướng của nó như thế
nào, nó là do bốn đại nó hòa hợp, rồi nó sanh ra những cái chất bẩn thỉu, bất tịnh
như thế nào, thế nào.
Từ ở ngoại
thân rồi từ nội thân, Đức Phật dạy quán thân trên ngoại thân, nội thân, hoặc là
nội ngoại thân, để chúng ta quán xét cái thân của chúng ta nó bất tịnh như thế
nào? Để rồi từ đó chúng ta không còn chấp cái thân nữa, tức là phá cái lậu hoặc
của nó. Đó là cái giai đoạn một.
Còn cái giai
đoạn hai, là chúng ta thực hiện ba cái định, đó là giai đoạn hai. Ba cái định
là định nào? Nhị Thiền, Tam Thiền và Tứ Thiền, đó là giai đoạn hai.
Đến cái giai
đoạn ba thì Đức Phật dạy chúng ta thực hiện Tứ Như Ý Túc. Bốn cái ý muốn này là
chúng ta thực hiện được, cũng trên cái thân đó mà chúng ta tu tập Tứ Như Ý Túc
chớ không phải ngoài cái thân đó mà tu tập cái khác được, hay hoặc là nói rằng
Tứ Như Ý Túc là tui tu ngoài cái thân, không phải đâu! Ở trên cái thân đó mà tu
tập.
Cho nên Tứ
Niệm Xứ rất là quan trọng cho cái con đường tu tập của chúng ta, từ khi đầu cho
đến khi cuối cùng là Tam Minh, chúng ta cũng ở trên Tứ Niệm Xứ mà tu tập.
Cái giai đoạn
thứ tư: thì chúng ta tu là Tam Minh, hướng tâm đến Tam Minh, ba cái Minh.
Đó là bốn
giai đoạn thực hiện. Mà nếu mà thiếu một cái giai đoạn nào thì coi như là cái
người tu sĩ chưa hoàn thành được con đường tu tập của mình.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét